Trên hồng huyết cầu của mỗi người có những kháng sinh (angigen) A, hoặc
B, hoặc cả A và B, hoặc không có kháng sinh A hay B nào cả (nhóm máu
này được gọi là O, tức không có A hay B). Như vậy có tất cả 4 nhóm máu:
A, B, AB và O. Việc hia nhóm này là dựa theo một số hóa chất
carbohydrates và proteins đặc thù trên hồng cầu. Có khoảng 46 nhóm khác
nhau, nhưng những nhóm chính là O, A, B và yếu tố Rhesus. Vì những lý
do chưa được khám phá, máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại
những nhóm kia. Do đó, khi truyền máu khác nhóm vào, kháng thể của
người nhận có thể phá hủy máu gây tác hại cho cơ thể.
Người thuộc nhóm máu nào đó thì có kháng sinh (antibody) chống lại nhóm
máu kia. Thí dụ: Người thuộc nhóm máu A thì có kháng sinh chống lại máu
nhóm B. Người thuộc nhóm AB thì không có kháng sinh chống lại A và B.
Người thuộc nhóm O thì có kháng sinh chống lại cả A và B. Vì thế mà khi
truyền máu, cần truyền máu cùng nhóm.
Kháng sinh ABO trong máu được di truyền từ cả hai người mẹ và người
cha. Người thuộc nhóm máu A thì thể có một nhiễm thể (gene) A hoặc hai
nhiễm thể A. Viết tắt là AO hoặc AA (AO hay AA đêu thuộc nhóm A) Người
thuộc nhóm máu B thì là : BO hoặc BB. Người thuộc nhóm AB thì là AB.
Người thuộc nhóm O thì là OO (tức không có gene A hay B).
Mẹ A và cha A thì sanh con có máu thuộc nhóm A.
Mẹ A và cha O thì con cũng là A.
Me A và cha B thì con là AB,
Mẹ B và cha 0 thì con là B,
Mẹ B và cha B thì con là B,
Mẹ O và cha A thì con là A,
Mẹ O và cha B thì con là B
Mẹ O và cha O thì con là O.
Mẹ O và cha AB thì con là A hoặc B (chứ con không phải là O hoặc AB)
Dựa vào phương pháp trên, có thể loại trừ người nào không phải là cha giữa hai người đàn ông khác nhóm máu và đứa bé.